Suy tim là một bệnh lý phức tạp, khi đó tim mất đi khả năng duy trì cung lượng tim đầy đủ để đáp ứng nhu cầu về oxy và dinh dưỡng của cơ thể. Bệnh càng tiến triển thì các triệu chứng như mệt mỏi, khó thở, tim đập nhanh, phù… càng trầm trọng, làm ảnh hưởng đến mọi sinh hoạt hàng ngày, suy giảm chất lượng cuộc sống người bệnh. Điều trị bằng thuốc được coi là phương pháp hàng đầu giúp giảm triệu chứng, hạn chế sự tiến triển của bệnh và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Tim bình thường và suy tim với buồng thất trái giãn

Tim bình thường và suy tim với buồng thất trái giãn

Có rất nhiều nhóm thuốc điều trị suy tim, trong đó mỗi nhóm có cơ chế riêng và ưu nhược điểm khác nhau. Tùy vào mức độ suy tim của bệnh nhân và các triệu chứng, bác sỹ sẽ lựa chọn phác đồ hợp lý nhằm đạt được hiệu quả tối ưu trong điều trị bệnh. Bên cạnh việc tuân thủ phác đồ, người bệnh cũng cần có những hiểu biết nhất định để việc sử dụng thuốc được an toàn, hợp lý.  Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu 5 nhóm thuốc chính trong điều trị suy tim và những lưu ý khi dùng thuốc.

Thuốc lợi tiểu:

Bệnh nhân suy tim thường phải dùng thuốc lợi tiểu để hạn chế lượng nước và muối thừa trong cơ thể, giúp giảm gánh nặng cho tim, làm tim hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời giúp giảm triệu chứng phù do suy tim. Thuốc lợi tiểu không làm ảnh hưởng tới số lượng hồng cầu và bạch cầu trong máu, mà còn giúp cải thiện đáng kể khả năng hô hấp của bệnh nhân suy tim (do nước trong phổi đã được đào thải bớt) và làm giảm đi triệu chứng khó thở, phù. 

Hầu hết các thuốc lợi tiểu có xu hướng loại bỏ kali ra khỏi cơ thể, nhưng một số thuốc lại có thể làm tăng nồng độ kali như thuốc lợi tiểu có chứa triamterene hoặc spironolacton, vì thế cần có biện pháp theo dõi chặt chẽ lượng kali trong máu nếu điều trị bằng các thuốc này.

Thuốc lợi tiểu thường được sử dụng trong suy tim bao gồm:

Hoạt chất Biệt dược Hoạt chất Biệt dược
furosemide    Lasix    eplerenone    Inspra
bumetanid    BUMEX    triamteren    DYRENIUM
hydrochlorothiazide    HCTZ torsemide    Demadex
spironolactone    Aldactone    metolazone    Zaroxolyn

Nhiều nghiên cứu cho thấy, có thể kết hợp sử dụng thuốc lợi tiểu với thuốc ức chế men chuyển để tăng hiệu quả điều trị và kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân suy tim. Tuy nhiên, quyết định sử dụng thuốc như thế nào thì bác sỹ điều trị sẽ căn cứ vào tình hình thực tế của bệnh nhân và mức độ đáp ứng điều trị trước đó.

Digoxin (Lanoxin)

Digoxin là thuốc có tác dụng làm tăng co bóp tim nhẹ có nguồn gốc từ thực vật như các loài digitalis hay strophanthus. Digoxin có thể làm giảm các triệu chứng của suy tim và tần suất nhập viện do suy tim tiến triển nhưng không có tác dụng kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân.

Tuy digoxin được sử dụng chủ yếu trong trường hợp loạn nhịp tim do rung nhĩ và cuồng động nhĩ, nhưng nếu lạm dụng nó sẽ gây tác dụng ngược lại là rối loạn nhịp tim nghiêm trọng, thậm chí đe dọa tính mạng. Vì thế, dù digoxin đã được sử dụng trong điều trị bệnh lý liên quan tới nhịp tim từ cách đây khoảng 200 năm nhưng nó không nằm trong danh sách các thuốc đầu bảng điều trị suy tim. Hiện nay, nó chỉ dùng kết hợp cùng thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II, thuốc chẹn bêta hoặc thuốc lợi tiểu ở người bệnh vẫn còn triệu chứng suy tim.

Digoxin điều trị suy tim tốt nhưng không phải thuốc đầu bảng
Digoxin điều trị suy tim tốt nhưng không phải thuốc đầu bảng

Thuốc giãn mạch

Các thuốc này có tác dụng làm giãn động mạch, tiểu động mạch nên góp phần giảm bớt gánh nặng cho tâm thất trái, giảm áp lực lên tim khi bơm máu qua động mạch, nhờ đó giảm chỉ số huyết áp. Vì vậy, các thuốc giãn mạch sẽ giúp hạn chế các yếu tố làm tăng nặng thêm tình trạng suy tim.

Thuốc ức chế men chuyển ( ACE)

Là thuốc giãn mạch được sử dụng rộng rãi nhất cho suy tim. Chúng có tác dụng ức chế sản xuất Angiotensin II - một chất tăng cao bất thường ở người suy tim và gây co mạch, làm tăng gánh nặng cho thất trái.

Ức chế men chuyển là nhóm thuốc rất quan trọng, nó giúp làm chậm tiến triển của quá trình gây tổn thương tim, cải thiện chức năng cơ tim. Vì thế, nó không những cải thiện được triệu chứng mà còn có hiệu quả trong việc kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân suy tim.

Tuy nhiên, nhóm thuốc này có tác dụng phụ, hay xảy ra ở người cao tuổi là gây ho, vì vậy nhóm đối tượng nhạy cảm này sẽ được dùng thay thế bằng thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II dưới đây.

Các thuốc ức chế men chuyển thường có đuôi – pril, bao gồm: 
 
Hoạt chất Biệt dược Hoạt chất Biệt dược
captopril    Capoten    benazepril    Lotensin
enalapil    Vasotec    quinapril    Accupril
lisinopril    Zestril/Prinivil fosinopril    Monopril
ramipril    Altace     Enalapril/
hydrochlorothiazide
Vaseretic

Thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II

Có vai trò ngăn chặn tác động của Angiotensin II ở mức độ tế bào, sử dụng trong trường hợp bệnh nhân không thể dùng được các thuốc ức chế men chuyển.

Cả thuốc ức chế men chuyển và thuốc ức chế thụ thể Angiotensin II đều có hiệu quả với bệnh suy tim, trong đó hiệu quả của thuốc ức chế men chuyển đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu lâm sàng. Cả 2 nhóm thuốc này có thể gây giữ kali, vì vậy cần lưu ý khi sử dụng cho các bệnh nhân suy tim kèm bệnh thận, hoặc ở đang dùng thuốc lợi tiểu giữ kali như triamterene hoặc spironolactone. Nên giám sát nồng độ kali máu thường xuyên cho nhóm đối tượng có nguy cơ cao bị tăng kali máu.

Các thuốc nhóm ức chế thụ thể Angiotensin II thường có đuôi – sartan:

Hoạt chất Biệt dược Hoạt chất Biệt dược
candesartan    Atacand    olmesartan    Benicar
irbesartan    Avapr    losartan    Cozaar
valsartan    Diovan    telmisartan    Micardis
eprosartan    Teveten           

Thuốc chẹn kênh calci (CCB)

Nhóm thuốc này rất hữu ích trong việc giúp hạ huyết áp. Vì vậy, nếu nguyên nhân gây suy tim là huyết áp cao, bệnh nhân không đáp ứng với các thuốc ức chế men chuyển và ức chế thụ thể angiotensin, thì việc sử dụng CCB chính là giải pháp thay thế hiệu quả.

Một số thuốc chẹn kênh calci điển hình:

Hoạt chất Biệt dược Hoạt chất Biệt dược
diltiazem    Cardizem    verapamil    Calan, Isoptin
nifedipine    Procardia, adalat amlodipine    Norvasc

Nhóm thuốc nitrat

Là các thuốc giãn tĩnh mạch bao gồm isosorbide mononitrate (Imdur) và isosorbide dinitrate (Isordil). Nitroglycerin là một nitrat được dùng để điều trị đau thắt ngực cấp tính, hoặc mạn tính. Chúng thường được sử dụng kết hợp với một thuốc giãn động mạch, như hydralazine.

Hydralazine (Apresoline)

Là thuốc giãn cơ trơn mạch máu có thể được sử dụng để điều trị suy tim sung huyết. Thử nghiệm cho thấy hydralazine kết hợp với nitrat và thuốc ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể angiotensin II đặc biệt có hiệu quả trong điều trị suy tim ở người Mỹ gốc Phi.

- Isosorbide dinitrate và hydralazine (BiDil) là sự kết hợp của isosorbide dinitrate (20 mg / viên) và hydralazine (37,5 mg / viên). Thuốc này được chỉ định cho suy tim ở người Mỹ gốc Phi dựa trên kết quả đánh giá độ suy tim của họ.

- Hydralazine là lựa chọn tốt với những bệnh nhân có chức năng thận kém hoặc không dung nạp với thuốc ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể angiotensin II.

Thuốc chẹn beta giao cảm

Nhóm thuốc này có tác dụng trực tiếp lên cơ tim để làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp, nhờ đó giảm bớt khối lượng công việc của tim.

Một số thuốc trong nhóm như carvedilol (Coreg) và metoprolol (Toprol XL - thuốc giải phóng kéo dài) đã được chứng minh có hiệu quả làm giảm triệu chứng của suy tim, giảm tỉ lệ người bệnh phải nhập viện và tử vong do suy tim.

Các thuốc khác trong nhóm gồm: bispropolol (Zebeta), atenolol (Tenormin), propranolol (Inderal), và Bystolic (Nebivolol), nhưng không được sử dụng trong điều trị suy tim.

Thuốc làm tăng co cơ tim (Inotropes):

Đây là các chất kích thích làm tăng khả năng bơm máu của tim. Chúng được sử dụng để hỗ trợ tạm thời khi tâm thất trái suy yếu, ở bệnh nhân bị hạ huyết áp nghiêm trọng và không đáp ứng với các thuốc điều trị suy tim khác. Một số inotropes được sử dụng phổ biến gồm: dobutamine (Dobutex) và milrinone (Primacor), Phenylephrine (Neo-Synephrine).

Các loại thuốc nói trên rất hiệu quả trong điều trị suy tim tâm thu, chưa có bằng chứng chứng minh tác dụng với suy tim tâm trương. Bệnh nhân suy tim tâm trương thường được kê đơn những loại thuốc này để điều trị nguyên nhân suy tim như tăng huyết áp, bệnh mạch vành…

Các Inotropes giúp làm tăng khả năng bơm máu của tim

Các Inotropes giúp làm tăng khả năng bơm máu của tim

Những lưu ý khi dùng thuốc điều trị suy tim

Trên đây là các thuốc thường được sử dụng để điều trị suy tim. Tùy thuộc vào nguyên nhân gây bệnh, tình trạng bệnh suy tim cũng chư điều kiện kinh tế của bệnh nhân mà bác sĩ đưa ra các loại thuốc cụ thể.

 Người bệnh cần lưu ý những điểm sau đây khi đang điều trị bằng thuốc suy tim:

 - Thường xuyên theo dõi cân nặng, ghi chép đầy đủ vào một cuốn sổ và mang nó đến bác sĩ mỗi lần tái khám.

- Kể từ khi có dấu hiệu suy tim, bệnh nhân thường được kê nhiều loại thuốc, khả năng tương tác thuốc tăng. Các loại thuốc điều trị bệnh lý đi kèm có thể ảnh hưởng đến những loại thuốc đang dùng cho suy tim. Vì thế, người bệnh nên mang theo danh sách các thuốc hiện tại đang dùng  mỗi khi đi khám bác sĩ.

- Các hoạt chất có thể kết hợp với nhau tạo thành thuốc có tên biệt dược khác nhau, vì vậy tổng lượng hoạt chất mà bạn sử dụng có thể cao hơn.

- Cần ghi lại cách dùng các thuốc mà bác sĩ kê về thời gian, liều lượng, cách dùng, nếu chưa hiểu rõ nên gặp bác sĩ hoặc chuyên gia y tế để được giải thích chi tiết.

- Tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ về chế độ ăn uống, tập thể dục, và các thay đổi lối sống khác.

- Hiểu biết về các tác dụng phụ của thuốc và cách hạn chế.

Có thể xem suy tim là một điểm dừng chân cuối cùng của các bệnh tim mạch, vì vậy, việc điều trị nó cũng không thể ngày một ngày hai mà có thể cải thiện được chức năng tim cho người bệnh. Việc dùng người bệnh phải thuốc suốt đời là điều không thể tránh khỏi, cho nên hiểu và nắm rõ về các thuốc đang sử dụng, các tác dụng phụ của thuốc sẽ giúp người bệnh “an tâm” điều trị và có hướng giải quyết sớm với các vấn đề bất thường xảy ra trong quá trình điều trị.

 
Nguồn tham khảo: http://www.emedicinehealth.com/ 
BTV Lan Anh

Ích Tâm Khang –  Hỗ trợ giảm khó thở, hồi hộp, xơ vữa mạch vành ở người bệnh tim mạch, suy tim

Bình luận