Viêm túi mật không thể chủ quan
Túi mật nằm ở mặt dưới gan, vùng bụng trên bên phải, dưới bờ sườn. Túi mật có chức năng chứa dịch mật do gan bài tiết. Khi ăn, túi mật co lại, tống mật vào ruột để tiêu hóa thức ăn. Viêm túi mật xảy ra do tắc nghẽn đường dẫn mật, chủ yếu do sỏi mật (90% các trường hợp liên quan đến sỏi của đường mật và 10% khác không có sỏi đường mật).Yếu tố nguy cơ gây viêm túi mật bao gồm: tuổi cao, giới nữ, béo phì, giảm cân nhanh, do dùng thuốc, phụ nữ mang thai….
Những điều bạn nên biết:
Hầu hết bệnh nhân viêm túi mật cấp, triệu chứng thuyên giảm sau 1 - 4 ngày. Tuy nhiên, khoảng 25 - 30% bệnh nhân phải phẫu thuật khi xuất hiện các biến chứng.
Viêm túi mật không do sỏi gây tử vong cao hơn do sỏi
Bệnh nhân viêm túi mật không do sỏi có tỷ lệ tử vong khoảng dưới 10%, lớn hơn nhiều so với khoảng 4% ở những bệnh nhân viêm túi mật do sỏi. Nếu có hơi trong đường mật, tỷ lệ tử vong xấp xỉ 15%. Thủng túi mật xảy ra ở khoảng 10 - 15% trường hợp.
Viêm túi mật không do sỏi có liên quan đến điều kiện kết hợp với tình trạng ứ mật bao gồm: suy nhược cơ thể, phẫu thuật lớn, nhiễm khuẩn... và những nguyên nhân khác như: nhiễm khuẩn Salmonella, đái tháo đường, nhiễm virut cự bào ở những bệnh nhân bị AIDS.
Viêm túi mật do sỏi gặp nhiều hơn ở phụ nữ
Ở người trẻ tuổi, sỏi túi mật ở nữ cao hơn nam giới 2 - 3 lần, do sự thay đổi nội tiết tố ở phụ nữ có thai có thể gây ra ứ trệ dịch mật vì thế viêm túi mật do sỏi ở nữ cao hơn ở nam. Tuy nhiên, phạm vi tác động của viêm túi mật tăng theo tuổi và tỷ lệ này được chuyển dịch từ nữ giới sang nam giới, có liên quan với thay đổi tỷ lệ androgen/estrogen.
Dấu hiệu điển hình của bệnh: Tam chứng Charot
Đau bụng, sốt, vàng da là 3 triệu chứng điển hình khi bị viêm túi mật bị, còn được gọi là Tam chứng Charot.
Đau bụng: Thường đau vùng gan, đau bụng vùng hạ sườn phải xuyên ra sau lưng hay lên vai phải, cũng có khi đau vùng thượng vị nên dễ nhầm với cơn đau do ổ loét dạ dày - tá tràng. Trong lúc đau, nếu người bệnh ăn hay uống, đau sẽ tăng lên do đường mật bị kích thích.
Sốt: xuất hiện sau các cơn đau vài giờ (6 - 12 giờ) do nhiễm khuẩn đường mật với các cơn sốt rét run và vã mồ hôi, sau đó nhiệt độ cơ thể trở lại bình thường hoặc hơi tăng.
Vàng da: có thể có ở những trường hợp viêm túi mật do sỏi.
Bệnh nhân cũng có thể có các dấu hiệu của rối loạn tiêu hoá như chán ăn, buồn nôn hoặc nôn. Ở người già, triệu chứng đau và sốt có thể không rõ. Trong các đợt tắc mật có thể thấy người bệnh xuất hiện các dấu hiệu của suy thận như tiểu ít, nước tiểu sẫm màu như nước vối và ngứa. Tắc mật lâu ngày hoặc sau các đợt viêm đường túi mật có thể viêm teo nhỏ lại nên khi thăm khám không thấy túi mật to.
Siêu âm có thể thấy gan to, túi mật to, thành túi mật dày, có thể có sỏi trong và ngoài gan, có thể có giun kèm theo. Nếu các kết quả không rõ ràng, cần chụp đường mật, CT scanner đường mật hoặc nội soi đường mật.
Những trường hợp điều trị khó khăn
Đó là những trường hợp phát hiện bệnh muộn để xảy ra biến chứng nặng phải phẫu thuật mở đường mật lấy sỏi, rửa đường mật và đặt ống dẫn lưu; những trường hợp phải giải phóng đường mật tạm thời như chọc mật qua da hay mở cơ thắt Oddi qua nội soi.
Một số trường hợp khác người bệnh bị kháng thuốc, dị ứng thuốc điều trị, rối loạn chức năng gan, thận thì việc điều trị sẽ gặp nhiều khó khăn.
Bình luận