Ung thư ống mật khởi phát khi các tế bào bình thường trong ống mật bị biến đổi bất thường (tăng sản hoặc loạn sản) không kiểm soát được, tạo thành một khối gọi là khối u. Khối u này có thể là lành tính hoặc ác tính (ung thư), nếu ác tính có nghĩa là nó có thể di căn sang các bộ phận khác của cơ thể.

Giới thiệu về hệ thống đường mật

- Ống mật là một ống dài khoảng 10 - 12 cm, kết nối gan, túi mật với ruột non. Chức năng của ống mật: dẫn mật được sản xuất từ gan và lưu trữ trong túi mật rồi đổ xuống vào ruột non. Đường ống dẫn mật bao gồm:

+ Đường dẫn mật trong gan (tiểu mật quản) thu gom mật từ các tế bào trong gan vận chuyển đến các nhánh lớn hơn và đưa ra ống mật chủ.

+ Đường dẫn mật ngoài gan dẫn mật chảy xuống ruột non, một phần được lưu trữ trong túi mật.

- Túi mật được nối với ống mật chủ bởi một ống nhỏ - gọi là cuống mật.

- Dịch mật là một chất lỏng giúp hòa tan các chất béo có trong thức ăn và giúp cơ thể loại bỏ các chất thải trong máu được lọc qua gan.

He-thong-duong-mat
Hệ thống đường mật

Các vị trí ung thư ống mật

Ung thư có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của ống mật, thường được chia thành 2 loại chính: ung thư đường mật trong gan và ngoài gan.

Nguyên nhân gây ung thư ống mật:

Ước tính khoảng 2.000 đến 3.000 người ở Hoa Kỳ được chẩn đoán mắc bệnh ung thư ống mật. Số lượng các trường hợp mắc mới đang ngày càng gia tăng. Nguyên nhân của sự gia tăng này chưa được xác định chính xác. Nhưng có thể thấy, trước đây ung thư ống dẫn mật trong gan thường được cho là một loại ung thư khác di căn đến. Ngày nay có nhiều nghiên cứu cho thấy sán lá gan là nguyên nhân chính gây ung thư. Sán lá gan là rất phổ biến ở châu Á và Trung Đông, chính vì lý do đó mà ung thư ống mật phổ biến hơn ở những vùng này. Ngoài ra, sỏi mật và tình trạng viêm của đường tiêu hóa như viêm loét đại tràng, xơ viêm đường mật (PSC), bệnh tự miễn, suy giảm hệ thống miễn dịch của cơ thể tấn công các ống dẫn mật gây ra sẹo, làm tăng nguy cơ ung thư ống mật.

Nếu ung thư được chẩn đoán sớm ở giai đoạn đầu, thì tỷ lệ người bệnh sống được 5 năm sau khi phát hiện chiếm 30% đối với ung thư ống mật ngoài gan, 15% đối với ung thư ống mật trong gan. Khi đã có di căn thì việc điều trị trở nên rất khó khăn, và ít có cơ hội sống.

Các triệu chứng cảnh báo ung thư ống mật

Nghẽn đường mật với biểu hiện tắc mật. Những bệnh nhân biểu hiện vàng da với phân bạc màu, tiểu sậm và ngứa. Những triệu chứng không đặc hiệu như mệt mỏi, chán ăn, sụt cân và sốt không tìm được nguyên nhân có thể đồng hành hoặc đi trước sự tiến triển của vàng da. Cần cẩn trọng trong việc chẩn đoán vì ung thư đường mật thỉnh thoảng cùng tồn tại với bệnh sỏi mật, đó chính là lý do gây nên sự giải thích sai lầm về lý do của sự tắc nghẽn. Mặt khác, ung thư đường mật gần sự phân nhánh hay ung thư trong gan sẽ không gây vàng da bởi vì chỉ cần từ 10% đến 20% mô gan chức năng không bị cản trở thì cũng đủ để bài tiết bilirubin hiệu quả.

Chẩn đoán ung thư đường mật

Bệnh nhân cần được khám lâm sàng tổng quát. Các thử nghiệm được dùng để kiểm tra khối u hoặc sự tắc nghẽn trong đường mật bao gồm:

- Siêu âm gan và đường mật thường là chỉ định chẩn đoán hình ảnh bước đầu ở những bệnh nhân nghi ngờ vàng da tắc mật. Siêu âm có thể giúp xác định tắc nghẽn và giãn đường mật. Trong một số trường hợp, siêu âm đơn độc cũng đủ để chẩn đoán ung thư đường mật. Tại cùng thời điểm này, tình trạng không bị tắc nghẽn của động mạch gan chính và tĩnh mạch cửa và các nhánh của chúng có thể được đánh giá bằng siêu âm Doppler. Sau đó, CT xoắn ốc (chụp cắt lớp) cần được thực hiện để đánh giá sâu hơn phạm vi thâm nhiễm của khối u và sự di căn xa nếu có.

- X quang đường mật qua gan dưới da (PTC: percutaneous transhepatic cholangiography): Nếu khối u có vị trí ở chỗ phân nhánh hay bên trên và liên quan đến việc tăng bilirubin thì nên được thực hiện bằng phương pháp này để nhìn thấy giới hạn trên của chỗ hẹp, những thông tin chính xác để có đánh giá tin cậy, và để giải quyết việc tắc mật.

- Nội soi đường mật ngược dòng (ERCP: endoscopic retrograde cholangiography) là thích hợp nếu ung thư đường mật ở vị trí giữa hoặc dưới của ống mật. Mẫu khối u có thể được lấy bằng nội soi bằng kim qua hướng dẫn của CT hay siêu âm, sau đó được chải rửa hay sinh thiết.

- Chụp đường mật bằng cộng hưởng từ (MRC: magnetic resonance cholangiography) là một kỹ thuật mới, có khả năng nhìn thấy đường mật mà không xâm lấn. Trong khi vai trò của MRC được so sánh với PTC hay ERCP còn được đánh giá vẫn có những ưu điểm có ý nghĩa ở những trẻ em hay khi những phương thức chẩn đoán khác không thể thực hiện được. Với những phát triển sau này, kỹ thuật này sẽ có khả năng nhanh chóng trở thành một kiểm tra chẩn đoán thường quy.

- Chụp X quang mạch không nên thực hiện, nếu có cũng rất hạn chế với những trường hợp mà sự liên quan mạch máu vẫn còn chưa rõ ràng ở những kiểm tra ít xâm lấn khác.

- Xét nghiệm chức năng gan (đặc biệt là phosphatase kiềm, bilirubin, chức năng đông máu toàn bộ, các marker ung thư như CEA, CA 19-9)

Điều trị ung thư ống mật như thế nào?

Mục đích là để giải quyết khối ung thư và hậu quả của việc tắc nghẽn đường mật do nó gây ra.

- Phẫu thuật: Nếu tình trạng bệnh nhân cho phép, việc phẫu thuật cắt bỏ khối u là phương pháp điều trị chọn lựa, có thể giúp chữa lành bệnh. Nếu khối u quá lớn, có thể cắt bỏ toàn bộ gan và ghép gan. Tuy nhiên, khối ung thư đường mật thường đã lan rộng vào thời điểm được chẩn đoán.

- Hóa trị hoặc xạ trị có thể được sử dụng sau phẫu thuật để giảm nguy cơ ung thư tái phát. Tuy nhiên lợi ích của các liệu pháp này không rõ rệt lắm khi phẫu thuật đã lấy trọn được khối u và sinh thiết ở vùng rìa là âm tính. Trong một số trường hợp ung thư đường mật đến khám ở giai đoạn muôn, quá chỉ định phẫu thuật, việc điều trị bằng hóa trị liệu có thể được sử dụng hoặc không sử dụng tùy từng trường hợp cụ thể.Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng, hóa trị đã được chứng minh là cải thiện chất lượng sống và kéo dài cuộc sống ở những bệnh nhân ung thư đường mật quá chỉ định phẫu thuật.

Dat-stent-co-the-lam-thong-tac-ong-mat
Đặt stent có thể làm thông tắc ống mật

Các thuốc hóa trị thường được dùng để điều trị ung thư đường mật bao gồm 5-fluorouracil + leucovorin, gemcitabine dùng đơn độc, hay gemcitabine kết hợp với cisplatin, irinotecan, hoặc capecitabine. Một thử nghiệm nhỏ khác cho thấy erlotinib, một chất ức chế tyrosine kinase có thể có ích đối với những bệnh nhân ung thư đường mật giai đoạn tiến triển.

- Đặt stent: Ở những bệnh nhân không thể cắt bỏ được khối u, điều trị nội soi kèm đặt giá đỡ (stent) có thể tạm thời giúp giảm tắc nghẽn trong đường mật và giảm vàng da.

- Liệu pháp quang động (photodynamic) bằng chiếu tia Laser nội soi kết hợp với các thuốc hóa trị kích hoạt bằng ánh sáng (light-activated chemotherapy medications) là một chọn lựa cho những bệnh nhân tắc nghẽn đường mật. Liệu pháp quang động cho thấy có cải thiện về tỉ lệ sống còn và chất lượng sống của người bệnh.

DS Đông Tây
Trích nguồn: http://www.cancer.net

Bình luận