Chảy máu đường mật do phẫu thuật vùng bụng
Phẫu thuật túi mật, bệnh gan, lấy sỏi mật,…và các can thiệp vùng bụng khác đều có thể gây chảy máu đường mật, dẫn tới thiếu máu mạn tính cho người bệnh.
70% các ca can thiệp vào vùng bụng gây chảy máu đường mật
Chảy máu đường mật (Hemobilia) là hiện tượng máu chảy trong đường dẫn mật do chấn thương mạch máu kế bên. Các bệnh lý về gan mật như xơ gan, viêm gan, ung thư gan, sỏi mật, viêm túi mật, viêm đường mật… xuất hiện ngày càng nhiều cùng can thiệp ngoại khoa làm tăng nguy cơ xuất hiện biến chứng này.
Các thủ thuật chẩn đoán và điều trị sỏi, viêm đường mật, túi mật… điển hình như dẫn lưu dịch mật xuyên gan qua da, cắt bỏ túi mật và sinh thiết gan nội soi… là những nguyên nhân thường gặp gây chảy máu đường mật. Nhóm nghiên cứu của Green cho biết, chấn thương sau điều trị chiếm 70% trọng tổng số các nguyên nhân gây chảy máu đường mật.
Các nguyên nhân khác bao gồm: sỏi túi mật, viêm túi mật, viêm đường mật, bất thường trong cấu tạo mạch máu, khối u ác tính, áp xe gan, ung thư gan…
Ngoài ra, phương pháp tán sỏi qua da bằng cách sử dụng túi Dormio, đồng thời rửa đường mật với nước muối sinh lý dưới áp lực cao cũng có thể gây chảy máu đường mật.
Triệu chứng báo hiệu chảy máu đường mật
Có tới 30% tổng số bệnh nhân sỏi túi mật có kết quả cận lâm sàng báo hiệu chảy máu đường mật. Trên lâm sàng, biểu hiện điển hình của tình trạng này là bộ ba triệu chứng (tam chứng Hemobilia):
- Đau ở vùng thượng vị phải.
- Vàng da.
- Xuất huyết đường tiêu hóa trên (nôn ra máu, tiêu phân đen).
Tuy nhiên, tam chứng Hemobilia chỉ xuất hiện trong khoảng 22-30% trong tổng số bệnh nhân. Dựa vào biểu hiện lâm sàng, chảy máu đường mật được chia thành:
- Thể nặng: có thể đe dọa tính mạng, cần phải cấp cứu kịp thời.
- Thể nhẹ: chảy máu ít, thường được điều trị bảo tồn và truyền máu.
Chảy máu đường mật xuất hiện ngay khi bị thương hay sau thủ thuật hoặc tiến triển ở vài tuần hoặc vài tháng tiếp đó với diễn tiến âm thầm gây thiếu máu mạn tính. Theo Forlee thì thời gian trung bình để xuất hiện các tổn thương và triệu chứng chảy máu đường mật là 23,5 ngày (từ 1-120 ngày).
Nhóm tác giả này cũng cung cấp một số giả thuyết để làm sáng tỏ nguyên nhân dẫn tới chảy máu đường mật sau phẫu thuật hoặc do chấn thương, trong đó có sự phình mạch giả của động mạch gan gây lỗ rò động mạch – mật. Cơ chế của tình trạng này được lý giải là do sự tạo thành các cục máu đông trong ống mật làm ứ mật khiến các chất trong dịch mật thâm nhập vào nhu mô bị tổn thương, ức chế hình thành fibrine (sợi huyết) và tăng trưởng của mô hạt, gây hoại tử ống mật và hình thành lỗ rò.
Biến chứng do chảy máu đường mật gây ra
Hậu quả nghiêm trọng nhất có thể kể đến là mất máu, thiếu máu, nhiễm trùng máu, hoặc có thể gây tử vong. Những biến chứng khác gồm: cục máu đông trong ống dẫn mật, kích thước lớn có thể gây tắc mật, giãn ống dẫn mật phía trên cục máu đông, vàng da và dẫn đến hình thành sỏi.
Chẩn đoán phân biệt
Chảy máu đường mật liên quan đến tam chứng Hemobilia cần được chẩn đoán phân biệt với viêm đường mật, chảy máu do loét dạ dày tá tràng và do tăng áp lực tĩnh mạch cửa.
Chảy máu dạ dày dễ bị chẩn đoán nhầm với chảy máu đường mật
Nên lưu ý, trong trường hợp mắc ung thư gan nguyên phát, có thể có cục máu đông và các tế bào ung thư trong lòng ống dẫn mật.
Nếu các triệu chứng có liên quan đến hội chứng ứ mật (vàng da ứ mật), thì nên được chẩn đoán phân biệt với sỏi mật, do cục máu đông trong ống mật có thể được chẩn đoán nhầm là sỏi mật.
Điều trị chảy máu đường mật
Tùy thuộc vào biểu hiện lâm sàng của bệnh nhân và mức độ chảy máu để có hướng điều trị bảo tồn hay xâm lấn. Nhóm nghiên cứu của Green cho thấy 43% bệnh nhân chảy máu đường mật được điều trị bảo tồn bằng phương pháp truyền máu, 36% trường hợp được thực hiện các can thiệp thuyên tắc trong trường hợp chảy máu đường mật mạn tính dẫn đến thiếu máu và thất bại của điều trị bảo tồn. Hiệu quả của thủ thuật này lên tới khoảng 80-100%.
DS. Đông Tây
Nguồn:
http://en.wikipedia.org/wiki/Haemobilia
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/14728951
Bình luận