3 biến chứng mắt thường gặp nhất ở người bệnh đái tháo đường
Biến chứng mắt của bệnh đái tháo đường có thể khiến các mạch máu ở mắt bị tổn thương, xuất huyết và dẫn đến giảm thị lực, mờ mắt, thậm chí mù lòa. Việc hiểu rõ nguyên nhân, dấu hiệu cũng như cách điều trị biến chứng này sẽ giúp bạn giảm rủi ro. Dưới đây là 3 biến chứng mắt thường gặp nhất ở người bệnh đái tháo đường.
Bệnh võng mạc đái tháo đường
Đây là biến chứng mắt phổ biến nhất của bệnh đái tháo đường. Thống kê cho thấy khoảng 30% trường hợp mù lòa mỗi năm xuất phát từ biến chứng này.
Nguyên nhân gây ra bệnh võng mạc đái tháo đường
Khi đường máu cao, các mao mạch ở đáy mắt sẽ bị tổn thương. Hậu quả là dịch từ trong lòng mạch thoát ra ngoài gây xuất huyết và phù nề. Nếu gây phù ở hoàng điểm thì có thể làm giảm thị lực rất nhiều. Đồng thời, việc các mao mạch bị phá hủy và bị tắc gây thiếu máu ở võng mạc. Khi đó cơ thể sẽ có phản ứng sinh ra một số yếu tố kích thích sự hình thành các mao mạch mới phát triển mạnh cả vào hậu phòng (khoang chứa dịch kính).
Các mạch máu mới này rất dễ vỡ và thường gây xuất huyết nặng từ giai đoạn sớm làm đục dịch kính. Các mạch máu mới cũng gây ra các vết sẹo xơ ở võng mạc và trong quá trình liền sẹo nó có thể co rút gây ra bong võng mạc làm mất thị lực vĩnh viễn. Hậu quả của phù hoàng điểm, đục dịch kính, bong võng mạc... là mắt bị giảm hoặc mất khả năng thu nhận các tín hiệu ánh sáng, biểu hiện lâm sàng là giảm thị lực hoặc mất thị lực hoàn toàn.
Hình ảnh võng mạc bị xuất huyết và xuất hiện mạch máu mới.
Tùy thuộc vào mức độ tổn thương các mạch máu ở võng mạc mà người ta chia bệnh võng mạc ở người bệnh đái tháo đường làm 2 giai đoạn sớm là bệnh võng mạc không tăng sinh (chưa có các mạch máu mới) và muộn là bệnh võng mạc tăng sinh (đã có các mao mạch mới). Điều đặc biệt nguy hiểm là đa số các người bệnh đái tháo đường không thấy có bất cứ triệu chứng gì về mắt cho đến khi đột nhiên bị mất thị lực. Khi đó dù có được điều trị rất tích cực và tốn kém thì khả năng bảo tồn được thị lực là rất nhỏ, phần lớn người bệnh sẽ bị mù vĩnh viễn. Chính vì vậy người bệnh đái tháo đường cần đi khám mắt định kỳ, tốt nhất là 6 tháng 1 lần và được khám bởi bác sĩ chuyên khoa mắt.
Cách điều trị bệnh võng mạc đái tháo đường
Trong thời gian gần đây đã có nhiều tiến bộ lớn trong điều trị bệnh võng mạc do đái tháo đường. Nếu chỉ có bệnh võng mạc không tăng sinh đơn thuần thì không cần điều trị gì đặc hiệu ngoài việc phải kiểm soát tốt đường máu và huyết áp và theo dõi thường xuyên tiến triển của bệnh võng mạc. Điều may mắn là điều trị ở giai đoạn này thường có kết quả tốt và đôi khi có thể phục hồi được thị lực cho người bệnh. Nếu không có điều kiện theo dõi hoặc khi người bệnh có thêm những yếu tố nguy cơ khác như suy thận hoặc tăng huyết áp thì có thể chủ động điều trị laser nhằm hàn lại các chỗ thành mạch bị rò rỉ, hạn chế hiện tượng phù và xuất huyết, chặn đứng sự lan rộng của tổn thương.
Với bệnh võng mạc tăng sinh: Phương pháp điều trị laser diệt bớt các tân mạch ở những người có bệnh võng mạc tăng sinh, hạn chế nguy cơ các mạch máu này bị vỡ có thể phòng được mù lòa. Một hướng khác của điều trị laser là gây ra các vết sẹo nhỏ ở vùng thiếu máu để ngăn ngừa không cho các tân mạch xuất hiện và phát triển thêm. Điều trị laser có thể chỉ tập trung vào vùng hoàng điểm bị phù hoặc toàn bộ võng mạc và theo nhiều nghiên cứu, phát hiện bệnh võng mạc càng sớm thì điều trị càng có hiệu quả.
Với những người đã có bong võng mạc hoặc xuất huyết rất nhiều thì điều trị laser không có hiệu quả, khi đó cần phẫu thuật cắt thủy tinh thể để giải phóng các sẹo hoặc dịch đục trong mắt. Phẫu thuật càng sớm bởi các bác sĩ chuyên khoa thì kết quả sẽ tốt hơn. Ngày nay có thể tiến hành gắn lại võng mạc nhưng thủ thuật này rất khó và chỉ có thể tiến hành được ở khoảng một nửa số người bị bong võng mạc.
Người bệnh đái tháo đường nên đi khám mắt hàng năm để phòng biến chứng võng mạc.
Thiên đầu thống (Glaucoma)
Các BN đái tháo đường có nguy cơ bị thiên đầu thống cao gấp 1,4 lần người bình thường, nguy cơ này sẽ tăng lên ở những BN tuổi cao và có thời gian bị bệnh đái tháo đường dài. Thiên đầu thống một hoặc cả hai mắt xảy ra khi áp lực trong mắt tăng lên và trong phần lớn các trường hợp, dịch kính sẽ bị thoát ra ngoài. Áp lực cao sẽ chèn ép vào các mạch máu nuôi võng mạc và dây thần kinh thị giác (dây thần kinh số I), hậu quả là vùng võng mạc và dây thần kinh bị phá hủy gây mất thị lực. Các BN bị thiên đầu thống thường có triệu chứng đau đầu nhiều, đặc biệt đau dữ dội hốc mắt, đo nhãn áp thường rất cao.
Để điều trị thiên đầu thống cần phải phẫu thuật làm giảm áp lực trong mắt, một số trường hợp phải mổ cấp cứu. Tuy một số thuốc cũng có tác dụng làm giảm áp lực trong mắt nhưng chỉ nên dùng để điều trị tạm thời trong khi chờ phẫu thuật.
Đục thủy tinh thể
Đục thủy tinh thể là bệnh có thể gặp nhiều ở những người không bị đái tháo đường, nhất là ở những người cao tuổi. Tuy nhiên người bệnh đái tháo đường có nguy cơ bị đục thủy tinh thể cao hơn 1,6 lần và đục thủy tinh thể xuất hiện ở lứa tuổi trẻ hơn. Đôi khi đục thủy tinh thể xuất hiện ở các BN đái tháo đường týp 1 trẻ tuổi và tiến triển rất nhanh, thường là sau một giai đoạn kiểm soát đường máu kém.
Đục thủy tinh thể nặng sẽ ngăn cản ánh sáng đi qua, gây giảm thị lực, đồng thời cũng gây khó khăn cho việc khám và phát hiện bệnh võng mạc ở các BN đái tháo đường vì rất khó có thể quan sát được đáy mắt và hậu phòng.
Trường hợp bị đục thủy tinh thể nhẹ thì có thể chỉ cần đeo kính râm thường xuyên khi đi nắng là đủ, ngoài ra có thể nhỏ mắt các loại thuốc có tác dụng hạn chế tiến triển của đục thủy tinh thể như Catarstat. Nếu đục thủy tinh thể nặng, có ảnh hưởng nhiều đến thị lực thì cần phải mổ thay thủy tinh thể. Lưu ý là ở một số BN mổ thay thủy tinh thể không cải thiện được thị lực do BN có đồng thời cả bệnh võng mạc nặng.
DS Đông Tây
Bình luận